Phần 2
Về thành phố, anh lại sống nhịp sống của mình. Nhưng hình như đã có điều gì đó khác đi. Đôi khi anh mơ thấy mình đi lạc trong một đám sương mù của bản Meklong. Con đường sương dẫn anh đến gốc cây cổ thụ, tán lá xoè ôm lấy anh, siết chặt anh đến mức anh thấy nghẹt thở, và choàng tỉnh trong cơn mê vẫn như còn phủ kín lên tinh thần. Anh không cố giải thích tại sao mình lại mơ thấy điều đó. Anh vẫn ngồi bên cửa sổ, nhìn về phương trời xa lấp lánh sao đêm, vẫn nhìn những ngôi sao lạ, và đôi khi nhói lòng thảng thốt khi thấy ngôi sao nào đósáng hệt như đôi mắt cô đêm ấy…
Mùa xuân năm sau, anh trở lại. Bản Meklong vẫn nằm im lặng trên lưng chừng đồi, những sợi khói trắng mỏng mảnh vẽ lên bẫu trời những đường chỉ mờ nhạt u buồn. Anh lên đến đấy vào buổi chiều, nhưng chưa vội vào bản. Anh ngồi ở chỗ cành cổ thụ có tán lá xoè thấp, im lặng đốt thuốc. Nhìn xuống bảng lảng trời chiều đang soạn sửa sang đêm, anh thấy lòng mơ hồ một niềm vui yên bình, tựa những lúc anh ngồi bên khung cửa sổ nhà mình. Những cành dại bên sườn đồi, nằm trải mình nghiêng nghiêng thanh thản dưới ánh nắng cuối ngày, khơi mở trong anh những khoảng trời riêng mà từ trước đến nay anh chưa từng nghĩ. Cuộc sống của anh, anh chưa một lần trăn trở vì sao mình đôi lúc trở nên thừa thãi, không thường bận tâm đến những suy nghĩ chợt đến, nếu có, anh cũng thường gạt chúng nhanh ra khỏi đầu óc mình. Anh quá bảo thủ, quen thuộc với nếp sinh hoạt đã thành hình của mình, nên không muốn nghĩ tới chuyện gì khác. Bật cười, khi anh thấy hình như mình cũng giống Vân…
Có tiếng sột soạt phía sau lưng, anh vội nép vào một phía. Bóng một người chầm chậm đến. Anh nhận ra cô, hơi xanh xao, nhưng vẫn giống xưa, xa cách, có phần hơi lạnh lùng nếu không nhìn vào đôi mắt thẳm sâu vời vợi, mở ra những chân trời thênh thang không đoán định nổi. Cô đến ngồi dưới tán lá thấp, đầu hơi cúi, vẻ mông lung hiện rõ trên khuôn mặt trầm lặng. Bàn tay cô đang nắm giữ một vật gì đó, anh chú ý nhìn kỹ, nhận ra đó là chiếc khăn mặt của mình. Cô úp mặt vào chiếc khăn, hai vai thoáng rung rung. Rồi như cố gắng kiềm giữ cảm xúc, cô ngước mặt lên thật nhanh, nhìn ra phía trước, nói như tơ rung:
– Anh không nhớ rồi. Anh không nhớ rồi, sao mình cứ hoài nghĩ? Chiếc khăn này, anh quên lại, mình cứ nghĩ anh cố tình quên.
Cô khe khẽ hát, tiếng hát nhỏ trong vút, thoảng trong gió đêm nghe huyễn hoặc xa xôi. Anh nhớ hình như đây là một bản tình ca của người Nùng, mà anh đã nghe một lần trong đêm ở chợ Tình. Cô cứ hát, mắt vẫn trông xa, bàn tay thon dài vô tình vòchặt chiếc khăn mặt trong tay. Một lúc, như nhớ ra điều gì, cô đặt chiếc khăn trên đầu gối, nhẹ vuốt êm ái, thì thầm cho mỗi mình nghe:
– Xin lỗi mi, khăn ơi, có đau không? Ta nhớ anh quá, khuôn mặt vuông cứng rắn và ánh mắt trầm nghị, thẳng thắn ấy… Mi có biết bây giờ anh đang ở đâu không, có nhớ ta không? Một chút nào không? …
Đứng ở đằng sau, anh bỗng thấy như nghẹn thở. Cô nghĩ đến anh nhiều như thế ư? Anh cúi mặt, nhìn xuống dưới chân, những ngọn cỏ đêm ướt sương đang lay nhè nhẹ, nhẹ hơn lòng anh rất nhiều. Đôi chân như lôi anh về phía trước. Cô ngoái nhìn, nhận ra anh, khuôn mặt thoáng thay đổi, rồi trở lại bình tĩnh ngay. Cônói, giọng thật thấp, như hỏi:
– Anh đã trở lại.
– Ưø, anh đã trở lại.
Đôi môi nhỏ thoáng nụ cười, rõ dần, và anh nghe một mùi hương mơ hồ cũng rõ dần. Cô nắm lấy bàn tay anh, êm ấm đặt lên má cô, lên mắt, lên tóc… Anh ôm cô trong tay mình, nói nhỏ:
– Nếu anh không trở lại thì sao?
– Em biết là anh sẽ trở lại, em tin như thế.
Anh thoáng thảng thốt, thế đấy, mà anh đã định không trở lại nữa. Bất chợt, anh siết chặt cô, mềm mượt như một chú mèo nhỏ, hôn nồng nàn lên vầng trán phủ tóc loa xoà, thật lâu. Cô như hơi ngượng, giấu mặt vào vai anh, khẽ khàng:
– Anh biết không, em luôn tin anh sẽ trở lại. Lam nói với em rằng, những ông khách thành phố, sẽ chẳng thêm một lần đến. Em và Lam đã cãi nhau, em đã khóc. Nhưng em vẫn tin rằng, anh sẽ trở lại. Em thường ra đây ngồi, để nhớ về cuộc nói chuyện của chúng ta đó!…
Giọng cô khẽ lắm, nhưng rõ ràng bên tai anh. Anh kéo nhẹ tai cô:
– Em hư quá, khóc nhiều lắm phải không?
Cô chợt đẩy anh ra, lém lỉnh:
– Em có khóc khi nào đâu?
Anh hơi ngạc nhiên, rồi cũng bật cười. Ngước nhìn, anh thấy những vì sao đêm đang nhấp nháy lung linh …
***********OoO***********
Cô dẫn anh băng qua đồi, những bụi cây gai thấp cứa vào chân anh, ran rát. Anh hỏi:
– Em vẫn thường đi một mình trễ thế này ư?
– Cũng không thường, nhưng mỗi lần muốn đến chỗ mình gặp nhau, em đều đi theo con đường này.
Vừa nói, cô vừa nắm tay anh đi thoăn thoắt. Anh theo không kịp, thỉnh thoảng dừng lại. Cô quay nhìn anh cười làm anh thấy nhột nhạt, lại cố gắng đi tiếp trong tiếng cười trong veo của cô. Chừng mươi phút, trước mắt anh là căn nhà sàn gỗ nằm nép sau một giàn hoa vàng rất lạ. Trong nhà hắt ra một chút ánh sáng từ ngọn đèn nhỏ đặt ở góc. Anh bước vào nhà, và ngạc nhiên khi thấy góc phòng có một chiếc giường trải nệm mỏng, hai chiếc gối tròn thêu những bông hoa giống với chiếc khăn tay cô tặng anh. Mọi vật trong nhà không có gì nhiều nữa, trừ một kệ nhỏ khá nhiều sách. Cách bài trí không khác người Kinh, không thật tỷ mẫn nhưng vẫn thấy được sự ngăn nắp và tinh tế qua cách sắp xếp các vật dụng, và bức tranh vẽ một khoảng đồi vàng ươm trong một chiều nhiều mây trắng, dưới góc có hai câu thơ được viết rất đẹp bằng tay:” Lời xưa em khóc hờn ngấn lệ. Anh lạc đường trần chân phiêu linh”.
Cô ngồi nhìn anh quan sát cảnh nhà, hỏi:
– Anh thấy lạ?
Không trả lời, anh hỏi ngược lại cô:
– Ai vẽ bức tranh này thế?
– Em vẽ đấy, cả hai câu thơ kia nữa, em viết trong một bữa thơ thẩn nhớ đến anh!
Anh à một tiếng rồi không nói nữa. Anh mãi nghĩ về cô. Cô làm anh bất ngờ. Một người con gái đơn độc trong một ngôi nhà nhỏ, không gần lắm với những nhà kế cận, với một tâm hồn rộng mở và một trí tuệ không đơn giản qua những gì anh thấy…
Anh không kịp nghĩ gì thêm vì cô đã đến gần anh, trên tay là một ấm trà nhỏ bằng sành, hơi cũ kĩ nhưng rất sạch sẽ. Màu nước trà vàng sóng sánh dưới ánh đèn dầu, cho anh đoán đó là loại ngon. Anh nhìn bàn tay cô, rót nước không sánh ra bàn, có lẽ đã thuần thục lắm với công việc này. Cô vừa nâng ly mời anh, vừa nói:
– Em cũng hay uống trà. Loại trà này là do em hái, tự phơi sấy, và ủ trà theo ý thích. Anh uống xem có được không? Đọc sách, em nghe nói trà của người Bắc có vị nhưng ít mùi, trà của người Nam thì ngược lại, phải không anh?
Anh ừ, nhẹ đưa đầu lưỡi nhấp uống, hơi ngơ ngẩn khi mùi vị của loại trà này không khác mấy với trà anh uống ở nhà mình. Anh cũng hay uống trà bằng chén đất nung, và thường rất đậm, bỏ một chút hoa lài sấy khô thơm ngát. Cô nhìn anh trâm ngâm, và bỗng đứng lên hỏi:
– Anh nghe em thổi sáo nhé?
Không đợi anh trả lời, cô đến bên kệ sách, với tay lấy chiếc sáo trúc đã lên nước, và bắt đầu thổi. Anh không nhìn cô, đưa mắt ra phía đêm đen thẫm, lãng đãng sương. Trong đêm yên lặng, tiếng sáo như lượn trên đầu ngọn cỏ, lướt qua lưng bóng đêm, quyện vào gió lạnh một điều gì u uẩn đến lạ. Dường như anh chợt có cảm giác rằng mình đang ngủ mê, nhưng anh biết không phải vậy. Anh ít khi nào cảm thấy mình không hiểu nổi cảm giác của bản thân như lúc này. Duy có điều, anh cảm thấy trong cô còn lẩn khuất một cõi riêng tư rất u tịch. Anh bỗng nghĩ rằng mình quá hạnh phúc…
Anh cứ ngồi như thế, nghe những cung trầm buồn vi thanh huyễn hoặc ấy, cho đến khi cô cất tiếng hỏi:
– Anh có vẻ rất buồn?
Anh quay lại, nhìn thẳng vào mắt cô, buông trầm:
– Em ở đây có một mình thôi ư? Anh cảm thấy có nhiều thứ rất mơ hồ về em. Anh không nghĩ là em ở đây đã lâu đâu.
Cô cười khẽ, vừa đưa tay cất ống sáo, vừa trả lời anh:
– Em ở đây một mình từ khi mẹ, rồi bố em mất. Hai người đã mang em theo lên đây khi mẹ em bệnh nặng và bà không muốn ở Hà Nội nữa. Cũng mười mấy năm rồi. Lên đây gần hai năm thì mẹ em mất, rồi bố cũng theo mẹ luôn. Khi còn sống, bố là người đã dạy cho em học theo chương trình phổ thông bằng sách mua về mỗi lần bố xuống dưới xuôi. Oâng là người học vấn uyên bác, có cả một gia tài sách quý mà em đã giữ lại được hầu như nguyên vẹn. Oâng cũng là người sành trà, và là một nhà kinh doanh có tiếng dù rất nghệ sỹ. Mẹ thì dạy em nấu nướng, thêu vá, nhạc lý mỗi khi mẹ thấy khoẻ được chút ít, vì bà vốn là một giảng viên nhạc viện. Khi bố sắp mất, có nói em hãy về lại dưới xuôi, ở với nhà người chú bà con xa, nhưng em không thích, nên từ đó đến nay, em ở đây, học nghề thủ công và sinh hoạt như người trong bản … Em tự học thổi sáo đấy, anh!
Ở trong cô có quá nhiều khoảng lặng giữa vùng đồi núi hoang vu…. Nhưng lại cũng có rất nhiều cung thăng giữa tâm hồn, anh nghĩ. Anh hỏi cô:
– Em có hay về dưới xuôi?
– Dạ không. Chỉ thi thoảng đi chợ phiên mua những thứ cần thiết. Em ở đây và thấy quá đủ cho mình. Có một lần, em về Hà Nội thăm người chú họấy, có rất nhiều thứ khiến em thấy lạ, thấy mới, nhưng em sợ hãi sự đông đúc, chật chội khiếp người của thành phố.
Anh gật nhẹ đầu, chính bản thân mình, anh nhiều lúc cũng thấy như bị điên trong dòng người lũ lượt, chật kín cả phố mỗi sáng, mỗi chiều trong giờ cao điểm. Có những đêm anh mơ thấy mình nhảy múa, không mặc gì hết, giữa núi, giữa biển và những con đường nắng trải vắng người. Anh dường như là một kẻ thèm khát không gian. Meklong và cô, là định mệnh của anh? Anh tự hỏi, rồi chìm vào miên man.
*************OoO**************
Anh choàng thức, thấy nắng đã khẽ khàng chui qua song cửa nhỏ, đến nằm bên anh, vấn vít hơi thở của ban mai. Nhìn ra ngoài, giàn hoa vàng trước sân chúm chím những nụ mầm mới như chào đón người khách lạ trong ngôi nhà quạnh hiu. Anh lười lĩnh trở mình, quàng tay sang nhưng không thấy cô. Bên chỗ nằm của anh vẫn còn vương hơi ấm , chắc cô tỉnh giấc trước anh không lâu. Anh nhắm mắt, để nghe mùi hương dịu êm của tóc, của da cô còn se sẽ toả lan gần gũi quanh mình. Anh nghe tiếng chén đũa chạm nhau, cô từ nhà dưới bước lên với mâm cơm còn bốc khói, nhìn anh cười:
– Sâu lười, dậy đi dùng cơm sáng này!
Anh định từ chối, vì trước nay, anh không có thói quen ăn điểm tâm. Mỗi sáng anh thường ngồi nhâm nhi cafe ở quán cóc trên đường Láng. Ngại phụ lòng cô, anh trở dậy, ra sân sau rửa mặt, nước giếng mát lạnh làm anh tỉnh hẳn. Anh nghiêng đầu, nghe tiếng chim rất lạ lảnh lót sau vườn. Tiếng chim hót mà anh nghe như tiếng nhạc hoà âm, thổi vào anh một dòng suối cảm xúc tươi mát trong lành như buổi sớm nay. Anh bước rón rén, khẽ đưa chân đến chỗ tiếng chim, gần bụi cây thấp. Con chim nhỏ bỗng chao đôi cánh xinh xắn, vù bay. Anh ngơ ngẩn đứng nhìn theo, lòng bỗng trộn lẫn cảm giác hẫng hụt mơ hồ… Anh nhìn cành nơi chú chim đậu, rung rung khi chim bay đi, cho đến khi nhịp chuyển động dừng hẳn. Chim bay mất rồi, thoáng cảm giác huyền diệu cũng như cánh chim kia, bay mất rồi! !
Vào bàn ăn, anh vẫn còn như nghĩ về tiếng hót của chú chim lạ, và hầu như không dùng gì cả. Cô nhìn anh lo lắng, sợ cô buồn, anh giải thích:
– Anh đang nghĩ về chú chim lạ và tiếng hót của nó!
Cô càng nhìn anh chăm chú hơn. Anh cũng không nói gì nữa. Im lặng chợt đến.
……
– Những con chim hót hay nhất, thường được ít người biết đến, em nhỉ?
– Có lẽ thế. Và cô nói thêm ;
– Con chim này mỗi sáng vẫn hay hót ở vườn sau nhà mình. Anh thích tiếng hót của nó à?
– Thích lắm. Lạ. Mà rất trong. Lại ỡ giữa nơi này…
Cô không nhìn anh nữa, nhẹ nhàng thu dọn chén dĩa rồi đem cho anh một ấm trà, hình như cô đã pha sẵn từ trước. Anh nhìn dáng cô thoăn thoắt lên xuống, lòng rộn ràng dịu êm rồi chợt nghĩ: “Mình lại sắp ra đi rồi!”. Tối qua, khi ở cạnh cô, nghe cô kể về những ngày chờ anh trở lại, anh rất xốn xang. Cô dành cho anh một tấm lòng tròn vẹn, vừa có sự e ngại, bẽn lẽn, vừa như cương quyết, mãnh liệt bao la. Dường anh thấy sợ sự lãng linh của mình, hơn bao giờ. Anh bỗng thấy rối rắm. Nhìn ra, anh thấy nắng đã lên nhanh… Và cô cũng đã ùa vào lòng anh, nồng ấm…
***********OoO************
Mấy hôm sau, anh đều thức giấc sớm và nghe tiếng chim. Lúc nghe tiếng véo von đã thành quen thuộc ấy, anh không nghĩ gì cả, trí óc của anh như bỗng không hoạt động nữa. Anh tưởng như mình đang nằm trên một mặt hồ xanh biếc yên lặng. Và mỗi bận như thế, anh đều nghe nhịp thở của mình rất rõ, ồ ề, gấp gáp như thác…
Hôm nay cũng vậy, nhưng anh thức giấc sớm hơn thường bữa, vì hôm nay cô đi chợ phiên. Từ tối hôm trước, Lam đã ghé qua, rủ cô cùng xuống đổi hàng. Không muốn tham gia câu chuyện nên anh tránh đi. Lam ở cũng không lâu, lát sau anh đã thấy bước chân cô xoèn xoẹt trên lá về phía đường mòn đi vào bản. Trở về nhà, anh nghe cô nói với anh về ngày mai. Biết cô sợ mình buồn chán, anh vội trấn an là đã quen với chuyện ở một mình, cô mới yên tâm:
– Em xuống chợ một ngày, sẽ về trước khi mặt trời lặn, em chuẩn bị sẵn thức ăn cho anh rồi đấy. Đói thì anh dùng nhé!
Cô cúi xuống, hôn anh đang ngồi trên ghế, và tất tả đi ngay, vì tiếng Lam đã ơi ới ngoài cổng rào bằng gỗ tạp. Nhìn theo, anh thấy một nỗi buồn nào len lén đưa…
Vậy là, anh ở đây đã được 3 tuần – 3 tuần như mất tích, bởi anh hoàn toàn không liên lạc với bên ngoài. Không biết bây chừ cô em gái nhỏ của anh có ngóng ra cửa mỗi chiều như khi anh vẫn đi công tác? Những người bạn già hay đánh cờ tướng với anh dưới những tán cây cạnh Hồ Gươm có còn cãi nhau chí choé như trẻ con mỗi khi đối thủ hoàn cờ?
Và căn phòng riêng của anh có còn sáng lấp lánh sao đêm với khung cửa luôn để ngỏ? Và, anh cũng nhớ công việc, dù không là người say mê với công việc nhưng không làm gì anh cũng thấy buồn tay…
Ơû đây, mỗi sáng anh đều thức sớm hơn, và thấy khoẻ khoắn vô cùng. Tiếng chim lạ anh không nghe sót bận nào. Mỗi sáng, mỗi chiều tắt nắng, anh cùng cô đôi tay xoắn xuýt bách bộ dọc những triền đồi ươm hoa, mỏi thì nằm dài xuống cỏ mặc cho ánh sáng cuối ngày lặn sâu phía sau đồi, chỉ còn những khoảng tối mênh mang trải dài êm êm tiếng côn trùng chào đêm núi rừng. Và gió, anh thích những ngọn gió mang theo hơi mát của khí trời, của mùi hương cỏ dại tươi nồng ngai ngái. Vụt qua tai là tiếng một con thú nào lướt sột soạt trên thảm lá rừng, hoặc về hang, hoặc bắt đầu một ngày với bóng tối lan dần trên những ngọn cây già, in những khối đen thẫm không định dạng được lên nền trời đã soạn sửa hết ngày. Buổi tối anh thường ngồi nghe cô thổi sáo, hoặc cùng cô đọc những cuốn sách quý mà cha cô để lại. Có những cuốn mà anh tìm mãi chẳng thấy như “ Krishnamuti- cuộc đời và tư tưởng”, “ Hoà âm điền dã” của Andre Gide bản dịch Bùi Giáng… anh đã đọc được từ “thư viện” nơi đây. Và trong những ngày bình yên thế này, anh bỗng thấy vừa êm đềm vừa bão tố, vừa thênh thang nhỏ bé, vừa lụi tàn lẫn thăng hoa… Ba tuần lễ, với anh như một chớp mắt, lại có khi đăng đẵng dài diệu vợi. Thật ra thì chính bản thân mình, anh cũng chưa bao giờ có nhiều thời gian rỗi đến thế để mà ngẫm nghĩ về thời gian trước đây của mình. Những góc cạnh lẩn khuất, những tia chớp loé sáng trong suy nghiệm, đã đến với anh âm thầm, mà sấm động, phẳng lặng mà cuồn cuộn lớp sóng tầng sâu. Có một đôi bận, anh choàng tỉnh trong đêm với giấc mơ hãi hùng. Anh thấy mình đi mãi trên một con đường dài vô tận, không vũ khí, không lương thực, không định hướng mà chẳng có một phút dừng lại vì đầu gối anh, tê cứng, không thể duỗi thẳng ra để ngồi xuống, lưng anh còng đi vì mỏi mệt. Và một con hổ đói bỗng chồm ra từ một bụi cây nơi bìa rừng với cặp nanh dài bén nhọn, trắng nhỡn, xé tan thân anh, cả trái tim anh thành những mảnh nhỏ vãi máu rùng rợn trên con đường thăm thẳm mù khơi vô định. Tỉnh dậy, anh vẫn còn bị ám ảnh sâu đậm về cái họng toang hoác, đỏ lòm há rộng của loài cọp dữ thành tinh. Mỗi lúc như vậy, cô cũng tỉnh giấc, ngồi nhìn anh vật vã trong mê muội, đôi mắt nâu đau đáu tơ vò. Cô biết mình không làm gì để giúp anh được, bởi hình như chính cô cũng có những cơn ác mộng. Và cũng vì anh không bao giờ muốn nói chuyện với cô sau những lần như vậy. Nhưng, buổi sáng tinh sương bao giờ cũng đến với anh trong bình yên, dù cả đêm không ngủ. Ngồi bên tách trà nóng cô pha, lắng tai nghe tiếng chim hót đâu đó trong những lùm bụi quanh nhà, anh thường quên đi ám ảnh khi đêm. Anh ngồi nghe tiếng chim rất say sưa, như bị cuốn vào một bản giao hưởng réo rắt, mà mọi cung bậc không tỉa tót vẫn thật hoàn mỹ, thật sống động, thật phiêu hốt, tươi trong… Anh cũng thôi không bao giờ chạy ra để nhìn chú chim nữa, trừ lần duy nhất anh đã thấy chú ngày mới đến. Anh vẫn theo đuổi tiếng chim từ linh giác của mình, anh mường tượng ra được sự di chuyển, bước nhảy của chú chim trên cành, xuống lá, vỗ cánh, bay lượn tư do quanh khu vườn. Anh cảm thấy tiếng chim như vọng lại một thứ âm thanh nào còn huyễn hoặc xa xôi hơn chính bản thân tiếng hót. Dường như sự chết chóc có thể làm cho người ta đi ra khỏi mọi ám ảnh. Anh bị ám ảnh chăng, bởi những tháng ngày ở đây? Hay chính anh đã chết trong chính anh hư ảo? Anh càng cố giải thích thì mọi điều lại càng trở nên khôn cùng rối rắm. Hình như, mọi kiểm soát của anh chỉ dành cho nội tâm của riêng anh. Mà nội tâm càng phát triển thì tựa như thể xác càng héo úa! Những ngày ở đây có đôi khi anh nhận ra rằng mình chỉ là một sinh vật bé nhỏ giữa núi rừng mênh mông. Núi rừng đại ngàn như một Thuần Khiết xa xăm nào đã cách xa, xa ngái từ những ngày mất mát cứ dồn đọng lại thành một ao tù chật chội, hôi hám và tối đen nhầy nhụa….….
Ngồi mãi trong nhà, anh bước ra ngoài đi dạo. Cảnh vật vẫn như thế, đã quen thuộc lắm với anh, từ bước chân, lớp lá dày bên đồi, tới cành dẻ dại còi cọc nhưng mạnh mẽ sai quả… Những cành dại tím ngát, vàng tươi chạy dọc ngang trên những con đường nhỏ quanh co, uốn lượn những hình dị dạng… cũng đã quen thuộc lắm với anh và cô mỗi ngày. Anh bỗng thấy mọi thứ nhàm chán với mình. Thẳm sâu trong anh còn có ước mộng được tung cánh. Ước mộng!…
Thấy mỏi chân, anh trở về nhà mà chẳng nhìn hoàng hôn chập choạng như thói thường…
***********OoO**********